(HQ Online) – Những năm qua, sự tăng trưởng của kim ngạch hàng hóa XNK tăng lên nhanh chóng đã khiến khối lượng công việc hàng ngày CBCC Hải quan phải xử lý cũng gia tăng theo tỷ lệ thuận. Trong khi đó, công tác quản lý thuế XNK là một trong những nhiệm vụ quan trọng và ưu tiên của ngành Hải quan. Do đó, thực trạng số hóa và triển khai phần mềm ứng dụng trong công tác quản lý thuế của ngành Hải quan đang là bài toán đặt ra để đáp ứng nhiệm vụ thu đúng, thu đủ thuế cho NSNN.

Công chức Hải quan Vinh tận tình hướng dẫn thủ tục cho DN. Ảnh: H.Nụ

Từng bước triển khai

Qua các giai đoạn xây dựng, công tác nghiệp vụ quản lý thuế của ngành Hải quan đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Theo đó, từ năm 1998, ngành Hải quan đã bắt tay vào quá trình số hoá công tác kế toán thuế và triển khai trên phạm vi toàn quốc bằng Hệ thống Kế toán thuế. Nếu như trước đây chỉ có CBCC làm công tác kế toán được đạo tạo chuyên sâu mới có thể cập nhật, khai thác thông tin kế toán thuế XNK thì khi áp dụng Hệ thống, công tác quản lý theo dõi nợ thuế với cơ chế tự động theo dõi số thuế phát sinh, số thuế đã nộp, số thuế còn nợ của DN chi tiết theo từng tờ khai; thực hiện cơ chế tự động hạch toán kế toán cho phép CBCC chỉ cần nhập các chỉ tiêu thông tin cơ bản của hồ sơ, hệ thống sẽ tự động định khoản kế toán.

Có thể nói, việc thực hiện số hoá và triển khai Hệ thống Kế toán thuế đã đem đến những hiệu quả rõ rệt, cụ thể là tăng mức độ chính xác trong công tác quản lý theo dõi nợ thuế; giảm khối lượng công việc (liên quan đến công tác kế toán) cho CBCC Hải quan do hệ thống được thiết kế với cơ chế tự động hạch toán kế toán; giảm chi phí hành chính cho cơ quan Hải quan.

Theo đánh giá, trước khi triển khai Hệ thống Kế toán thuế, CBCC Hải quan phải sử dụng khoảng 30.000 quyển sổ (sổ thanh toán đối tượng nộp thuế) để theo dõi nợ thuế của DN (mỗi DN có một quyển sổ) đó là chưa kể đến các loại sổ chi tiết, tổng hợp tài khoản các báo cáo kế toán bằng giấy. Tuy nhiên, sau khi triển khai hệ thống các sổ sách chứng từ đã được lưu giữ toàn bộ ở dạng điện tử; tăng tính chính xác, kịp thời trong việc cưỡng chế, giải tỏa cưỡng chế đối với các lô hàng nộp thuế quá thời hạn quy định.

Tiếp tục ứng dụng mạnh mẽ CNTT, từ năm 2007, Tổng cục Hải quan đã thực hiện số hoá với việc áp dụng Giấy nộp tiền điện tử thay cho Giấy nộp tiền giấy và thực hiện kết nối trao đổi thông tin giữa các cơ quan Thuế – Hải quan – Kho bạc – Tài chính về tình hình nộp thuế của DN XNK. Đáng chú ý, từ năm 2012 đến năm 2017, ngành Hải quan đẩy mạnh chuẩn hoá quy trình thu thuế để phục vụ việc số hoá, thực hiện việc kết nối trao đổi thông tin giữa cơ quan Hải quan và các ngân hàng thương mại để thực hiện việc thanh toán điện tử. Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách để triển khai thực hiện thanh toán điện tử, phối kết hợp với các ngân hàng thương mại trong việc xây dựng các quy trình nghiệp vụ và phát triển các ứng dụng trao đổi thông tin.

Đặc biệt, từ năm 2017 đến nay, cơ quan Hải quan đã triển khai Đề án nộp thuế điện tử và thông quan 24/7. Theo đó, mức độ số hoá và ứng dụng CNTT được đẩy cao hơn một bước. Với việc triển khai Đề án này, DN có thể nộp tiền thuế vào mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện; đảm bảo thông tin nộp tiền được thanh khoản thuế kịp thời, chính xác; giảm thời gian nộp thuế, đồng thời thông quan hàng hóa ngay sau khi nộp thuế, qua đó rút ngắn thời gian hoàn thành thủ tục hải quan.

Việc triển khai nộp thuế điện tử và thông quan 24/7 cho thấy, quá trình số hoá công tác thu thuế đã tạo bước đột phá trong công tác thu nộp thuế, phí và lệ phí theo quy định của pháp luật đối với hoạt động XNK hàng hóa. Tạo thuận lợi và hỗ trợ hiệu quả cho DN XNK thực hiện nộp thuế, phí và lệ phí mọi lúc, mọi nơi, mọi phương tiện, hạn chế tối đa việc thanh toán bằng tiền mặt và thay bằng đó là thực hiện giao dịch trên môi trường điện tử; đảm bảo thông tin nộp tiền được thanh khoản thuế kịp thời, chính xác từ đó giúp giảm thời gian nộp thuế, giảm thời gian thông quan hàng hóa ngay sau khi DN hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế. Kết quả cho thấy, số thuế XNK thu bằng phương thức điện tử của giai đoạn 2016 – 2020 gấp hơn 1,5 lần so với giai đoạn 2011 – 2015.

Đẩy mạnh theo sự phát triển của CNTT

Mặc dù đã đạt được những hiệu quả, nhưng sự phát triển CNTT ngày càng mạnh mẽ, để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao, đồng thời tạo thuận lợi cho DN trong quá trình làm thủ tục hải quan, ngành Hải quan đã và đang đẩy mạnh số hoá và ứng dụng CNTT trong lĩnh vực thu, nộp thuế XNK. Trong đó, quá trình thực hiện số hoá, quy trình quản lý về công tác thu thuế XNK đang thường xuyên được rà soát, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về hải quan, đồng thời đáp ứng yêu cầu số hoá và triển khai các ứng dụng CNTT.

Tổng cục Hải quan xác định, hoạt động nghiệp vụ rất quan trọng và đòi hỏi nhiều nguồn lực, nên việc đẩy mạnh số hoá công tác quản lý thu thuế XNK được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, Tổng cục Hải quan việc số hoá và triển khai các hệ thống phần mềm ứng dụng để phục vụ công tác quản lý theo dõi tình hình nợ thuế, nộp thuế của DN XNK chính xác, kịp thời trên phạm vi toàn quốc đặt ra những yêu cầu rất lớn cho cơ quan Hải quan.

Song song với sự trợ giúp của các phần mềm ứng dụng, để đảm bảo thu đúng, thu đủ thuế, ngành Hải quan cũng đặt mục tiêu đẩy mạnh công tác đào tạo, nâng cao chất lượng, năng lực của CBCC làm công tác nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu xác định trị giá của hàng hoá, danh mục, biểu thuế, phân loại và mức thuế, theo dõi các thông tin thu, nộp thuế và các khoản thu khác của DN.

Lĩnh vực quản lý thuế XNK là một lĩnh vực có nhiều biến động, có tính linh hoạt rất cao, bên cạnh đó áp lực công việc của công chức Hải quan đang ngày càng gia tăng, nên Tổng cục Hải quan đang bắt tay xây dựng và triển khai hàng loạt các kế hoạch, đề án nhằm hướng đến tạo thuận lợi nhiều hơn cho DN cũng như, đáp ứng yêu cầu quản lý hải quan hiện đại, Hải quan số, mô hình Hải quan thông minh trong thời gian tới.

Đến năm 2030, trong tiến trình nghiên cứu, xây dựng và thực hiện hệ thống Hải quan số, mô hình Hải quan thông minh, ngành Hải quan đang từng bước nâng cấp, cập nhật và thiết kế mới nhiều mô hình, hệ thống ứng dụng triệt để công nghệ số, trí thông minh nhân tạo để nâng cao một bước hiệu quả trong công tác quản lý thuế.

Thống kê số thu NSNN của toàn ngành Hải quan trong 10 năm vừa gần đây cho thấy, số thu NSNN của ngành Hải quan luôn chiếm từ 25 đến 30% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN). So sánh có thể thấy, năm 2004 tổng thu nộp NSNN của ngành Hải quan đạt hơn 46.000 tỷ đồng, tăng gấp 700 lần so với năm 1990 và từ năm 2004 đến nay, số thu này đã tăng gần 8 lần. Nếu như năm 2005 số thu NSNN của ngành Hải quan đạt khoảng 50.000 tỷ đồng thì năm 2014 số thu này đã đạt con số 249.000 tỷ đồng và năm 2023 số thu NSNN của toàn Ngành đạt con số ấn tượng 369.000 tỷ đồng. Điển hình, năm 2021, số thu NSNN của ngành Hải quan cũng đã đạt mức 378.900 tỷ đồng.

Nguồn: https://haiquanonline.com.vn/day-manh-so-hoa-va-ung-dung-cntt-trong-cong-tac-quan-ly-thue-xuat-nhap-khau-182341-182341.html

TYPICAL CUSTOMERS

© 2023 Trasas Design